Máy Tính Tính Toán Online, Máy Tính Online
Hãy tưởng tượng bạn phải làm bài toán giải phương trình mà không cần đến máy tính tính toán. Điều đó thực sự đã xảy ra hàng trăm năm cho đến những năm 1970 khi máy tính hiện đại được phát minh.
Nhưng người xưa vẫn có các công cụ toán học khác nhau để giúp cho việc tính toán trở nên dễ dàng hơn. Trước khi máy tính kỹ thuật số và máy tính online tích hợp trên điện thoại thông minh được ra đời, lịch sử của công cụ tính toán này được bắt đầu từ rất lâu trước đó:
Nguồn gốc của công cụ tính toán
Công cụ đầu tiên được tạo ra để sử dụng với vai trò máy tính tính toán là bàn tính, được phát minh ở Sumeria vào khoảng 2500 trước Công Nguyên. Bàn tính là một bảng gồm các cột liên tiếp với các hạt hoặc đá tượng trưng cho một đơn vị, có thể được sử dụng để cộng hoặc trừ. Các nền văn hóa khác đã ứng dụng nguyên tắc này để tạo ra thiết kế đặc trưng của họ.
Ví dụ: Người Trung Quốc, đặt hạt trên dây trong khung tre để dễ dàng các thao tác tính toán. Thật không may, bàn tính không hữu ích cho việc nhân hoặc chia, đòi hỏi con người phải phát minh ra một thiết bị mới và tinh vi hơn.
Ngày nay, bàn tính trở thành đồ chơi trí tuệ cho các bé
Máy tính xương Napier
Mãi cho đến 4,500 năm sau, 1617, khi nhà toán học người Scotland - John Napier - xuất bản Rabdology, hay tính toán với các thanh. Trong bài viết của mình, Napier đã mô tả một thiết bị được gọi là xương Napier. Xương ở đây nghĩa là các thanh gỗ mỏng, được ghi bằng bảng nhân. Người dùng xác định tổng của chúng bằng cách thay đổi theo chiều dọc của thanh và đọc theo chiều ngang của bảng nhân. Mặc dù các thiết bị này hỗ trợ rất nhiều cho việc tính toán, nhưng chúng không phải là máy tính thực sự, mà chỉ hỗ trợ người thực hiện phép tính.
Máy tính xương Napier chỉ hỗ trợ các phép tính đơn giản
Sự ra đời của máy tính đầu tiên
Vào năm 1642, máy tính thực sự đầu tiên đã được phát minh: Đó một máy tính thực hiện các phép tính thông qua cơ chế đồng hồ. Máy tính Pascal, được phát minh bởi nhà phát minh và nhà toán học người Pháp Blaise Pascal, được ca ngợi vì đã có thể thực hiện các tính toán số học phức tạp hơn. Nhưng thật không may, chúng rất khó sản xuất và rất ít được sản xuất.
Sự thất bại của máy tính cơ học
Máy tính cơ học sau đó được Thomas de Colmar phát minh vào giữa thế kỷ XIX, và những đời máy sau đó, dễ sản xuất hơn, nhưng cực lớn và cồng kềnh. Chúng đều không phải là máy tính bỏ túi mà chúng ta biết ngày nay.
Máy tính của Thomas de Colmar có hình dáng cồng kềnh
Máy tính cầm tay đầu tiên được ra đời
Curt Herzstark đã phát minh ra máy tính cầm tay đầu tiên vào năm 1945, dựa vào thiết kế mà ông đã tạo ra vào năm 1938. Máy tính toán có hình dạng giống như một máy xay tiêu to lớn, được sản xuất với số lượng lớn. Cho đến năm 1970, vị trí đứng đầu của thị trường máy tính tính toán được thay thế bởi một công ty ở Nhật Bản khi phát minh ra máy tính bỏ túi kỹ thuật số đầu tiên. Các công ty ở Hoa Kỳ, như Texas Instrument, đã điều chỉnh thiết kế của thiết bị Nhật Bản và cải tiến nó bằng cách tạo ra các máy tính vẽ đồ thị mà chúng ta biết ngày nay.
Với việc phát minh ra điện thoại thông minh đầu tiên vào năm 1995, người dùng bắt đầu thay thế máy tính kỹ thuật số đắt tiền bằng thiết bị giao tiếp đa dụng. Điều này đòi hỏi các thiết kế máy tính phải được nâng cấp để có thể cạnh tranh trên thị trường.
Máy tính không chỉ tăng cường đáng kể khả năng của chúng ta để thực hiện các tính toán thông thường có liên quan đến cuộc sống hàng ngày, mà còn cung cấp cho con người khả năng thực hiện các phép toán ở quy mô lớn hơn bao giờ hết.
Các phép tính toán trước đây tốn nhiều thời gian có thể được thực hiện trong vài phút hoặc thậm chí vài giây, tất cả chỉ bằng một vài nút bấm.
Máy tính Casio rất phổ biến để giải bài toán phức tạp
Không có máy tính, các khóa học toán nâng cao như Giải tích, sẽ yêu cầu thời gian học lâu hơn và cấu trúc bài thi sẽ khác đi rất nhiều. Các kỳ thi Toán để tốt nghiệp THPT sẽ không còn ở dạng trắc nghiệm 50 câu, vì nếu không có máy tính, điều đó là hoàn toàn bất khả thi.
Nhờ máy tính tính toán, máy tính online, học sinh có thể tiếp cận toán học một cách toàn diện, giúp tăng chất lượng cũng như số lượng học tập và làm việc.